CHỌN LỰA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CHA MẸ

Trần Mỹ Duyệt

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó ”(Mt 10:37,39).   

Trong môi trường xã hội và văn hóa Việt Nam, nguyên việc bất đồng về hai chữ “thờ kính” và “tôn kính” ông bà tổ tiên theo giáo lý Công Giáo, và về việc đốt nhang trước bàn thờ tổ tiên đã khiến cho bao mối tình khác tôn giáo giữa Công Giáo và Phật Giáo, giữa Công Giáo và đạo Thờ Kính Tổ Tiên bị hủy bỏ, hoặc bị cấm cản. Nay lại nghe nói: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (37), thì đối với những ai sẵn có thành kiến và cái nhìn thiếu thiện cảm về Giáo Hội Công Giáo, và về giáo lý Công Giáo, những lời nói này của Chúa Giêsu càng đào sâu hố ngăn cách và dẫn đến hiểu lầm trầm trọng.

Tuy nhiên, điều Chúa Giêsu nêu lên và đã được Thánh Matthêu ghi lại, trong tình trạng thế giới, và trong môi trường hôn nhân gia đình ngày nay càng khiến chúng ta phải để tâm suy nghĩ. Tại sao Chúa Giêsu lại đưa ra sự chọn lựa này? Nó quan trọng như thế nào trong đời sống tâm linh, đời sống hôn nhân gia đình, cũng như trách nhiệm sinh thành, và dưỡng dục con cái?

“Ai yêu mến cha mẹ hơn Thiên Chúa, ai yêu mến con cái hơn Chúa đều không xứng đáng với Ngài”. Không ai lại hiểu một cách mộc mạc theo nghĩa đen của những từ ngữ này. Và dĩ nhiên, nó phải mang một ý nghĩa khác, một ý nghĩa siêu nhiên và tích cực. Trong giới răn thứ 4, chính Thiên Chúa đã chẳng truyền cho con cái phải yêu mến, thảo kính cha mẹ sao: “Người hãy thảo kính cha mẹ.” Và con cái chẳng phải là hồng ân Ngài ban cho cha mẹ và là hoa trái của tình yêu của cha mẹ sao? Vậy yêu mến, thảo kính cha mẹ, và thương yêu con cái có gì mà không làm Chúa vui đâu? Phải chăng vì Ngài là “Thiên Chúa ghen tỵ?”

Đúng vậy, Thiên Chúa không muốn chúng ta đặt bất cứ người, vật nào hơn Ngài. Chính Ngài đã phán: “Vì Ta, Thiên Chúa của ngươi, là một Thiên Chúa ghen tỵ” (Xuất Hành 20:5). Bởi vì ngoài Ngài ra, không gì là xứng đáng, khiến chúng ta phải đánh đổi dù cho đến mạng sống mình: “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (39). Chính trong ý nghĩa thiêng liêng, cao cả này mà việc đặt cha mẹ hay con cái trong sự lựa chọn giữa Thiên Chúa đã làm cho Ngài không hài lòng. Vì đó là một chọn lựa bất tương xứng. Chọn lựa giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật được tạo thành.    

Nhưng đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn có một chọn lựa tiêu cực và nặng về hình thức. Nhiều người đã vì cha mẹ, vì con cái mà mất lòng Thiên Chúa.  

Khi đặt Ngài và cha mẹ hay con cái vào sự chọn lựa, có nghĩa là Chúa Giêsu muốn nhắc cho chúng ta biết rằng bổn phận đối với con cái cũng như đối với cha mẹ, tình yêu đối với con cái cũng như đối với cha mẹ là những gì thiêng liêng cao cả và rất cần thiết. Nó có liên quan đến phần rỗi của mỗi người. Đây mới là cốt lõi của sự lựa chọn. Hay nói một cách thường tình, thì đó là một giới luật mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta phải chu toàn, cũng như giới răn mến Chúa và sự chọn lựa ưu tiên mà chúng ta dành cho Ngài: “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ”.  

Giáo lý của Chúa Giêsu giờ đây trở thành hết sức quan trọng không chỉ đối với phần tâm linh mà còn đối với thực tế của nếp sống con người thời đại, khi mà nhiều con cái đã bỏ bê, coi thường, và bất kính đối với cha mẹ. Một cách tương tự, nhiều cha mẹ đã quá ích kỷ, vô tâm đến độ giết con mình bằng hành động phá thai, hoặc hất hủi con mình bằng cách bỏ lơ trách nhiệm chăm nuôi và giáo dục chúng. Xã hội chúng ta đang sống hiện nay đời sống hôn nhân, gia đình và tình yêu gia đình đang bị phá sản, coi rẻ, đảo ngược không còn đi theo chương trình và quan phòng của Thiên Chúa.  

Thiên Chúa không muốn chúng ta vì cha mẹ hay vì con cái mà quên mất trách nhiệm thờ phượng, kính mến Ngài. Nhưng mặt khác, Ngài cũng không muốn chúng ta hiểu sai lạc ý của Ngài để rồi bỏ rơi, coi thường, và khinh bỉ cha mẹ. Chỉ vài nén nhang, vài mâm hoa quả, hoặc ít bánh trái cúng quả qua loa không đủ thay thế cho đạo hiếu, thay thế cho giới luật thảo kính cha mẹ. Hoặc không vì miếng cơm, manh áo hay sự chiều chuộng theo sở thích, cảm tình mà cha mẹ quên mất bổn phận sinh thành, và giáo dục con cái. Không thể khỏa lấp những lỗi phạm ghê tởm, mất nhân tính của những lần nạo, phá thai, những lần hành hạ tinh thần, đánh đập thân xác những đứa trẻ vô tội.   

Lời Chúa là “lời hằng sống”, cần thiết cho con người qua mọi thời đại. Theo lời Ngài, chúng ta phải đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, mọi chọn lựa, và mọi quyết định. Nhưng cũng phải vì Chúa mà trọn vẹn với giới luật của Ngài là yêu mến, thảo kính cha mẹ, là yêu thương, săn sóc và giáo dục con cái. Chúa Giêsu đã làm gương khi bày tỏ lòng yêu mến và kính trọng người mẹ của mình. Lợi dụng lúc dân chúng vây quanh, Ngài hỏi đám đông hôm đó: “Ai là mẹ ta? Ai là anh em Ta?” Rồi Ngài đã trả lời: “Là người nghe và thực hành lời Thiên Chúa” (Mt 12:48-50). Riêng đối với các trẻ em thì Ngài đã quở trách các môn đệ khi họ ngăn cản các em đến với Ngài: “Hãy để các em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (Mt 19:14). 

Tóm lại, kính Chúa, thảo hiếu cha mẹ và thương yêu con cái nằm trong bí quyết “nghe và sống lời Thiên Chúa”.  

NGUỒN HY VỌNG CỦA CHÚNG CON

Những kẻ tà đạo tân thời không thể chấp nhận điều mà chúng ta xưng tụng Đức Maria bằng cách gọi người là hy vọng của chúng ta. Kính chào hy vọng của chúng con, “spes nostra salve”. Họ nói chỉ mình Thiên Chúa mới là hy vọng của chúng ta, và rằng đặt hy vọng của Ngài nơi một tạo vật là làm nhục cho Thiên Chúa. Đức Maria, đối với họ chỉ là một tạo vật, và như một tạo vật, làm cách nào người có thể là hy vọng của chúng ta? Chính vì vậy, thay vì những điều các người tà đạo nói, Giáo Hội đòi hỏi các giáo sỹ, tu sỹ hằng ngày dâng lời thay cho toàn thể các tín hữu kêu cầu Đức Maria bằng một tên gọi hy vọng ngọt ngào của chúng ta, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại: “Kính chào hy vọng của chúng con!”   

TRÁI TIM NHÂN TỪ BỊ ĐÂM THÂU

“Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Ðức Giêsu. Khi đến gần Ðức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh dập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Ðấng họ đã đâm thâu” (Gioan 19:31-37).      

LỄ MẸ THĂM VIẾNG BÀI HỌC CỦA ĐỨC ÁI

Qua trình thuật trên, Thánh Luca đã tỷ mỷ tường thuật về việc Đức Maria đi thăm viếng người chị họ mình là Isave (Elizabeth). Hành động của Mẹ không chỉ nói lên tình cảm thân thiết giữa hai chị em, đặc biệt, trong tình trạng bà Isave đang mang thai lúc tuổi đã cao và ở những tháng cuối. Cuộc thăm viếng này không dừng lại ở khía cạnh tình cảm, nó còn mang ý nghĩa giới thiệu với bà Isave, với bào thai Gioan và cả thế giới một tin vui, đó là chính Đức Maria cũng đang mang thai, mà thai nhi ấy là Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể để cứu chuộc nhân loại.     

CHÚA THÁNH THẦN HƠI THỞ SỰ SỐNG

Lời hứa được trọn vẹn. Thánh Thần được ban xuống trên toàn thế giới, không đơn giản chỉ cho những nhà lãnh đạo và các tiên tri của Do Thái xưa, cũng không loại trừ 120 tông đồ, môn đệ, và Mẹ của Chúa Giêsu, những người đã tụ họp tại Giêrusalem vào lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Kinh nghiệm của 120 người nam nữ này cũng chính là kinh nghiệm của tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh, sống lại và giờ đây đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta hãy dừng lại ít phút để suy nghĩ xem chúng ta cảm nhận như thế nào về Tặng Ân của Chúa Thánh Thần.      

TÌNH CẢM VỢ CHỒNG THAY ĐỔI THEO THỜI GIAN

Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:   


PHỤ HUYNH CẦN LÀM GÌ ĐỂ GIÚP CON EM KHI BỊ BẮT NẠT Ở TRƯỜNG

“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”

Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội. 


THÁNH GIUSE THỢ

- Lễ Kính 1 tháng 5

Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).   

Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David.  Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa,  Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.


TÓM LƯỢC LỊCH SỬ NHỮNG PHÉP LẠ THÁNH THỂ

“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”


LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA: QUÀ TẶNG CỦA PHỤC SINH

“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *

Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.” 


NGƯỜI KHÁCH LẠ TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.    


MẦU NHIỆM PHỤC SINH QUA CHIẾC KHĂN LIỆM  

Anh chị em thân mến,

Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.


SỢ HÃI KHI CON THUYỀN PHÊRÔ GẶP SÓNG GIÓ!

Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]

Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người. 


CON CÓ BIẾT KHI NGƯỜI TA ĐÓNG ĐINH CHA?!  

Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.


NGÔI  MỘ TRỐNG - Chúa đã Phục Sinh. Alleluia.  

Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.

Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.


NHỮNG NGÔI MỘ TRẮNG  

Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?